Những Điều Căn Bản Trong Giáo Lý Đạo Phật (1974)



Cách đây hơn hai ngàn năm trăm năm, Đức Phật Thích Ca đã ra đời bên Ấn Độ và từ đó thế gian mới biết đến đạo Phật : con đường chỉ Chân-Lý tuyệt đối, giải thoát sinh tử luân hồi.

Khi Đức Phật Thích Ca còn tại thế thì người ta chỉ biết có một đạo Phật nhưng từ khi Ngài nhập Bát Đại Niết Bàn, đạo Phật dần theo thời gian và không gian thấy xuất hiện sự biệt lập giữa Tiểu thừa đối với Đại thừa và sự hình thành dần dà các tông phái như : Tịnh Độ tông, Luật tông,Duy thức tông,Mật tông, Thiền tông,...với những đường lối tu hành ít nhiều khác nhau.

Những lời dạy của Đức Phật Thích Ca qua bao nhiêu lần sao chép, kết tập thành Kinh điển chắc thế nào cũng có phần sai sót khác, không còn giữ được nguyên vẹn ý chính. Đạo Phật là con đường giải thoát sinh-tử-luân hồi-khổ đau và người tu Phật bởi Pháp môn hay phương tiện nào cũng không ngoài mục đích Minh-Tâm Kiến-Tánh thành Đạo vậy.

Ngày nay trên thế giới có hơn bốn trăm triệu người theo đạo Phật nhưng nói đến sự thành Đạo thì đời biết được mấy ai kể từ khi Ngài Lục Tổ Huệ Năng không còn truyền y bát.Ngày xưa, Đức Phật Thích Ca đã có dạy : "Giáo lý của ta ngón tay chỉ mặt trăng Chân-lý, chớ lầm ngón tay là mặt trăng".Thật vậy, không có ngón tay giáo lý thì người tu cũng không biết đâu là mặt trăng Chân-lý, trái lại lầm ngón tay là mặt trăng thì dầu có thuộc lòng Tam Tạng Kinh Điển cũng không thoát được vòng sinh tử luân hồi. Không có giáo lý căn bản thì người tu như thuyền không hướng biết đâu là bờ, nhưng trái lại lý thuyết mà không có phương tiện thích ứng thời kỳ, khế hợp căn cơ và không có sự thực hành đúng mức thì cũng chỉ là lý thuyết suông vô bổ của những lúc trà dư tửu hậu. Đời người trăm năm vô thường mau chóng, người tu Phật phải đặt vấn đề sinh tử lên hàng đầu.

Quyển " Những Điều Căn Bản Trong Giáo Lý Đạo Phật (1974)" này được mượn từ một người tu tại gia và Tôi đọc thấy rất hay. Tôi xin được giới thiệu cùng mọi người. Tôi nghe nói lại rằng quyển sách này do Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát xuống Việt Nam viết ra.

NAM MÔ VÔ THƯỢNG DI LẠC TÔN PHẬT
NAM MÔ ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT

Bài 2 : Thuyết Vô Thường Trong Nhà Phật


Ở đời muôn sự, muôn vật đều thay đổi. Phàm đã có cái gì vĩnh cửu, mọi vật luôn luôn biến chuyển đổi dời, không bao giờ ngừng nghỉ dù là trong giờ phút.

Hằng ngày, ở chung quanh ta, diễn biến bao nhiêu cảnh, biết bao tình. Nhưng có cảnh tình nào không biến chuyển, không đổi thay? Kìa hoa nở, trăng tròn, bèo hợp, triều dâng...Nhưng tất cả rồi cũng theo thời gian mà hoa phải tàn, trăng phải khuyết, bèo phải tan, triều phải hạ.

Một thanh gỗ mục không dùng được nữa. Nó mới mục hay mục đã từ lâu? Ta thấy rằng bây giờ nó mục hơn tháng trước, hôm nay mục hơn ngày hôm qua...nghĩa là nó thay đổi từng năm, từng tháng, từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây.

Một đứa trẻ vừa oa oa tiếng khóc chào đời, rồi lớn lên thành một đứa con nít rong chơi khắp ngõ, kế trở nên một thanh niên hay một thiếu nữ, lấy vợ lấy chồng, rồi già rồi chết. Từ cái thể xác măng sơ đến thân già run rẩy, phút chốc đã biến thành một đống xương khô thối, mà con người tưởng đâu rằng cuộc đời lâu dài lắm. Nếu ta chịu khó ngồi nhìn lại quãng đường qua, chúng ta không khỏi giật mình khi thấy thời gian trôi qua mau như bóng câu qua cửa sổ, những đổi thay tựa như giấc chiêm bao.

Tư tưởng con người cũng thế, chúng đổi thay theo những biến động của mỗi tình, mỗi cảnh. Những ý nghĩ này vừa dứt, những ý nghĩ khác tiếp đến; tình cảm nầy vừa qua, tình cảm khác liền phát khởi, giống như những đợt sóng xô đuổi nhau dập vào bờ để khơi lên những đợt sóng khác.

Vũ trụ chuyển biến theo bốn thời kỳ liên tục:  thành, trụ, hoại không; vạn vật đổi dời theo bốn giai đoạn : sanh, trụ, di, Diệt; và con người phải chịu sanh, lão, bệnh, tử. Những đổi thay đó, Phật Pháp gọi là Vô Thường.

Vô là không;  Thường là còn mãi. Vô thường là không thường còn, không bền bĩ, không lâu dài. Phật pháp phân tích mổ xẻ để cho ta thấy cái căn nguyên của Vô thường để ta thắng cái Vô thường mà an nhiên tự tại trước ngàn thay đổi.

Khi chưa có duyên gặp Phật Pháp, con người luôn luôn đuổi theo bóng dáng của muôn ngàn hình tướng đổi thay, chạy theo những phù vân, biến ảo, đổi dời trong phút chốc để rồi cứ lặn hụp mãi trong bể trầm luân.

Trong Kinh Pháp dụ, có đoạn tả một quả phụ có một đứa con bị bệnh chết. Bà ta kêu gào, la khóc, thảm thiết. Nghe nói Phật là đấng quyền năng, bà ôm con đến đảnh lễ Phật, và xin Phật cứu sống con bà, Phật trao cho bà một nén hương, bảo bà vào thôn tìm nhà người nào chưa có người chết xin lửa đốt hương rồi đem về, Phật sẽ cứu sống con bà. Bà vào trong thôn từ sáng đến chiều, bà lên xóm trên, xuống xóm dưới, nhưng vẫn không tìm được loại lửa mà Phật đã dặn, vì nhà nào cũng đã có người chết : cha, mẹ, ông, bà, con, danh, em, xa hoặc gần? Bà quả phụ phân vân , quay về bạch Phật. Lúc ấy Phật mới bảo : "Ở đời sự chết là một điều không ai tránh được. Thân xác này không thể sống mãi. Nếu nay không chết, ấy là chưa chết, mãi cũng chết, hoặc ngày kia cũng chết, cũng tan rã. Mọi vật đều Vô thường. Như vậy con bà chết là chuyện không thể tránh được. Người đời ai cũng chịu chung cái luật ấy, cho nên đừng lấy sự sanh diệt, tử ly mà đau buồn, tự mình chuốc lấy khổ, vô ích"

Tu theo Phật tức là tìm cách thắng sự vô thường; thắng bằng cách phân tích nó, mổ xẻ nó để hiểu rõ cái cội rễ của nó mà không thể trôi lăn theo như phù vân biến ảo, không đuổi theo vạn hữu đổi dời để an nhiên giữa dòng đời luân chuyển.
Bài 5 : Lục Đạo 

Trong thế gian, thông thường con người chỉ biết đến giống "Người" và những sinh vật khác khi họ thấy được, nghe được, biết được hay cảm nhận được. Đôi lúc con người cũng nhắc đến những con người khác như : ma, quỷ, thần thánh nhưng với một thái độ bán tín, bán nghi hoặc phủ nhận hoàn toàn, hoặc tin tưởng hết lòng, hoặc vì tò mò hoặc vì vui thích . 

Thử xét, ngoài con người và súc vật, thuộc giống hữu tính có thể nhận thấy bằng giác quan còn có những loại nào khác nữa chăng? Nếu có, các loài ấy do đâu sinh ra? Tính chất của chúng như thế nào?Chúng ở đâu?

Theo nhà Phật, con người sau khi chết thần thức lìa khỏi xác dựa trên những chất khác, thô kệch hay vi tế hơn để thành một trong sáu giống, (Thiên : Tiên hay Trời, Nhân: người; A Tu La : Thần, quỷ; Súc Sinh:  súc vật; Ngạ quỷ: ma đói; Địa ngục : loài quỷ bị tù tội) phù hợp với những tinh chất, với ý muốn của nó. Do đó nảy sinh ra Lục Đạo, tức sáu con đường mà thần thức phải theo khi lìa khỏi xác.

Có người phát tâm nghi hoặc : sáu loài ấy có thực chăng? Nếu có thực, tại sao ta không thấy?

Sáu loài ấy có thật, nhưng chúng ta không thấy được hết là vì chúng được cấu tạo dưới hình thức tứ đại khác biệt với thể chất của chúng ta. Do đó, chúng ta có thể lẫn lộn với chúng mà hai bên không thấy nhau được (biệt nghiệp), trừ khi hai bên có nghiệp cảm với nhau.

Ta có thể biết được các loài ấy có thật, nhờ những chứng nghiệm, để thấy một cách rõ ràng, do công phu tham thiền.

Sáu giống ở trong Sáu Đường đó là :

Thiên (cõi Trời) : là cõi của những kẻ giữ được ngũ giới (không sát sanh, đạo tặc, tà dâm, vọng ngữ, ẩm tửu), thập thiên (không giết, không trộm, không tà dâm, không nói dối, nói hai lưỡi, nói thêu dệt, nói hung ác, không tham, không giận, không si mê). Sau khi lìa khỏi xác, thần thức của họ về cõi Trời, dựa trên chất vi tế, sáng sạch hơn, để thành giống "Tiên". Tính chất chung của Tiên là ưa thanh tịnh, vui chơi và tuỳ theo phước báo nhiều hay ít mà phân ra ở từ tầng Trời thứ 2 đến tầng Trời thứ 28.

Nhân (Cõi Người) : ở thế gian này hay ở khắp 4 châu thiên hạ, Có giàu sang, nghèo, hèn, trí, ngu, hiền, ác nhưng thông thường tính chất chính của loài người là thuần hoá không có nết hay, tật xấu tuyệt đối.

A Tu La (cõi Thần, quỷ) : tu tập khá cao, có thần thông ưu giúp kẻ khác. Hưởng phước gần bằng Trời, nhưng đức kém thua, thường hay nóng giận và thích chiến đấu. Các loài thần, quỷ, thường hay ở những nơi núi non hùng vĩ và ở tầng trời thứ nhất. Họ có thể đi vào các cõi khác để giúp đỡ hay khuấy phá. 

Súc sanh (Thú vật) : ở tất cả mọi nơi, dưới nước, đất liền, trên không như các loài phi cầm, tẩu thú, thuỷ tộc. Súc sanh có loài bò, loài bay, loài máy cựa, loài bơi,...Lớn như đại bàng, cá voi, nhỏ cho chí đến côn trùng, vi trùng,...Tính chất của loài này là si mê, buông lung.

Địa Ngục : đây là nẻo về của thần thức những người độc ác. Địa ngục chia làm ba hạng : 

1. Tiểu địa ngục : ở những nghĩa địa ẩm thấp. Cõi này có tánh cách bị hành hạ.Thân xác của kẻ ở cõi này ốm yếu tinh thần bạc nhược.
2. Trung địa ngục : ở dưới mặt đất và vùng ít người đi đến (tham thiền thường gặp). Cõi này rất đau khổ.
3. Địa địa ngục :  những hành tinh lạnh buốt (hàn băng địa ngục) hoặc nóng hơn như thêu đốt ( hoả phong địa ngục)...

Ba đường sau (Súc sinh, Ngạ quỷ, Địa ngục, còn gọi là " Tam đồ ác đạo" : ba đường ác.
Nhà Phật gọi là lục đạo : sáu đường hay sáu loại , sáu giống vì loài người cùng ma, quỉ, đau khổ hay Tiên, Thần sung sướng đều giống nhau cả. Giống nhau bởi mỗi loài đều biết sống, chết, đều biết hưởng thụ, ham thích,..v..v..Có hơi sai biệt là kẻ khổ,người sướng mà thôi. Song kẻ khổ biết tạo nhân quả tốt rồi sẽ sướng, kẻ sướng không lo tạo thêm hưởng hết phước rồi sẽ khổ. Nên lúc hiện sống, mỗi loài đều hàm chứa cái giống sai biệt khác nhau trong mỗi một và cùng giống nhau trong cái thể sống nương vào ngoại cảnh để biết sống. Ví dụ về giống người :
- Nhân Thiên : Người tu tập cao
- Nhân Nhân : Người hoà nhã
-Nhân A Tu La : Người hay nóng giận
-Nhân Súc Sanh : Người nhiều lòng dục
- Nhân Ngạ Quỷ : Người chịu cảnh đói khát
- Nhân Địa Ngục : Người bị khổ vì tù tội

Từ đó, ta suy ra thì các đường kia cũng có những tính chất như thế. Người tu theo đạo Phật, sau khi hiểu qua Lục đạo, quyết tâm :
- Không sợ sệt các loài khác (không thể hại nhau) vì biệt nghiệp, trừ những trường hợp có nghiệp cảm do công năng tu tập chưa được thuần hậu.
- Tinh tấn tu hành để mau được giải thoát sanh tử luân hồi vì dầu cho ở trên tầng Trời cao nhất đi nữa vẫn là trong Lục đạo khi hết phước cũng phải đoạ, trôi lăn. 

Bài 9 : Thân Trung Ấm  

Một người sắp chết cảm thấy thân mình đau nhức khó thở, ngột ngạt : ấy là hiện trạng của tứ đại đang chuyển để phân ly. Bỗng nhiên thấy nhẹ nhàng, khoẻ khoắn: đó là đã chết và nghiệp thức bắt nguồn cho một cuộc sống khác.

Nếu ác nghiệp (sát sanh, trộm cướp,...) gồm đủ, nó sẽ lôi cuốn thần thức đi vào các nẽo dữ, do đó người liền sinh vào ba đường ác (Súc sanh, Ngạ quỷ, Địa ngục): nếu thuần thiện nghiệp (không sát, không trộm, không tà dâm,...) cái thần thức sẽ nương theo các nghiệp thiện ấy mà đi về những nẽo lành, do đó người liền sanh vào ba đường Thiện (Thiên, Nhân, Tu La).

Thế nào Thọ Sanh? Khi rời đời sống này để theo nghiệp mà vào một đời sống khác, thì thân xác của đời này chết đến đâu, tức thì ở đời sống khác liền sanh đến đấy. Một người nghiệp phải sa Địa ngục, thấy mình lạnh tê, chết lần từ chân trở lên, cho đến lúc người ấy trút hơi thở cuối cùng ở nhân gian, thì ở Địa ngục, thân xác của người ấy cũng vừa trọn vẹn. Thân xác sau này là hoá nghiệp của người ấy vậy.

Đây là những trường hợp mà nghiệp quả đã thành, đã đầy đủ. Khi nghiệp quả chưa thành (ác nghiệp xen vào thiện nghiệp) thần thức liền thấy Thập Điện Diêm Vương phê pháp tội phước và quyết định hiện nghiệp để đưa Thần Thức về một trong sáu đường. Thời gian này là 3 ngày (cho nên có tục mở cửa mã). 
Nếu ác nghiệp và thiện nghiệp nằm trong cái thế gần như quân bình, thì thần thức trải qua một đời sống ngắn ngủi để chuyển nghiệp dưới một hình thức thân phiêu diêu, gọi là THÂN TRUNG ẤM.

Thời gian của Thân Trung Ấm dài nhất là 49 ngày (nhân gian làm lễ thất tuần) sống trong một cảnh gọi là Âm cảnh.

Âm cảnh là một chốn mà các nghiệp chướng dồn lại thành gió rất mạnh (nghiệp phong), sấm chớp nổ rền không dứt, các sắc hào quang toả mạnh : vàng đậm (Phật), vàng lợt (Người), trắng hay xanh da trời (Tiên), đỏ hay tím (A Tu La) xám lợt (Súc Sinh), xanh đậm (Ngạ quỷ), xanh lá cây (yeu), đen (Địa ngục).

Những màu sắc rực rỡ, chói lọi như vàng rực, trắng lóng lánh,...là những màu Phật thường dùng để đưa thần thức về những nẽo lành.

Trong Âm cảnh, thần thức hoảng sợ vì bị nghiệp phong lôi cuốn, phiêu bạt, khó mà tự chủ đứng yên một chỗ. Tai điếc vì tiếng sấm, mắt loà vì vạn ánh hào quang. Nếu không định tỉnh được, thần thức sẽ đi tìm nơi im, rợp để ẩn núp và tất sẽ đi lần đến những ánh hào quang ít làm chói mắt (xám, xanh lá cây, đen) và như thế thần thức sẽ bị lôi cuốn đi vào những nẻo ác. 

Trong khoảng 49 ngày ấy, thần thức thường tìm về nhà cũ, nhưng vì ở trong một cái thể rất nhẹ nên chỉ có thể xuống ngang mái nhà, mà nhìn thấy họ hàng, bà con. Thấy cảnh yên vui thần thức sẽ lấy lại được cái bình tỉnh, tâm được định, chế ngự nghiệp phong, khiến nghiệp thức nhẹ nhàng nương theo những ánh hào quang tươi sáng mà sinh vào vào ba đường thiện hay sẽ hướng tâm tu trì được vãng sanh. 

Bằng thấy con cháu tranh nhau gia tài hay đãi đằng ăn uống, rượu chè say sưa, bày vẽ ồn áo, khóc la inh ỏi, thần thức cảm thấy mình cô đơn khổ sở, sinh ra buồn giận hay si mê, hoặc khởi lên những ác niệm tức thì tự mình bị lôi cuốn vào nghiệp dữ, chẳng khác nào kẻ nóng nảy, bực bội hay làm càng, làm ẩu, bất chấp phải trái.

Thần thức thấy những cảnh diễn ra trong gia đình và chính cảnh ấy rất có ảnh hưởng đến thần thức. Trong Âm cảnh, thần thức sống mơ màng, có khi nhớ lại được cuộc sống trước kia ở thế gian, có lúc chỉ biết được có Âm cảnh hoặc không biết, không hay gì cả. 

Cho nên nhìn một người sắp chết, ta có thể đoán được sự chuyển nghiệp của họ như thế nào.

Người nhiều thiện nghiệp trong giờ lâm chung, cảm thấy yên vui bình tĩnh, không mảy may luyến tiếc, có khi còn biết được giờ chết. Chắc chắn người ấy sẽ sanh vào nẽo thiện. Ngược lại, sẽ sanh vào ác đạo như trường hợp một người sắp chết mà thân xác bị dày vò, đau đớn, miệng đòi ăn ngon, mắt mong nhìn bị dày vò, đau đớn, miệng đòi ăn ngon, mắt mong nhìn sự nghiệp trần gian, toan tính của cải hay là than van tiếc rẽ cuộc sống phải xa lìa.

Đã biết như vậy, trong khi nhà có người sắp chết, người tu Phật chân chính sẽ rất bình tĩnh, cấm không cho có tiếng khóc tan. Phải ngồi cạnh người ấy nhắc nhủ họ niệm Phật tìm mọi cách cho họ yên vui tỉnh táo, giải thích các màu sắc hào quang phải nương theo.

Khi người ấy đã trút hơi thở cuối cùng, lại nên nhờ các bậc Chân tu đức độ dùng Thiền định tìm theo để hướng dẫn thần thức, an ủi, khuyên lơn trong Âm cảnh, cốt sao cho thần thức định được tâm thì     
định được gió nghiệp, lui được sấm chớp nghiệp mà tìm đường Thiện để hoá sanh. 

Trong khoảng 49 ngày của Thân Trung Ấm trong Âm cảnh tang gia cũng có thể rước các bậc đắc Huyền pháp nhà Phật hoặc bậc Cao tăng để hộ trì kinh kệ làm cho Thân Trung Ấm nếu có về, nghe được tiếng Kinh, câu Chú, các danh hiệu Chư Phật, Chư Bồ Tát, thì tâm cũng có thể định hướng về Phật mà phát nguyện tu trì để chuyển nghiệp lành, vãng sanh Tịnh độ. 

Một người dốc lòng tu niệm, tin Phật, hiểu kinh, gạt bỏ phàm lành, vun quén cội phước, khi lâm chung sẽ giữ được tâm trạng thanh tịnh, thì dù không giải thoát được sinh tử luân hồi cũng được vãng sanh Tịnh Độ, sống trong một không khí thấm nhuần Phật Pháp, để tiếp tục tu hành đến thành đạo. Ấy cũng là nhờ tư duy (suy nghĩ) Phật pháp, gieo được Tối thắng nhân quả vậy. 

Có người mộc mạc chất phác, không hiểu Phật pháp là gì, chỉ được một lòng tin Phật vững chải, siêng đi chùa, niệm Phật, dâng hương không nại khó nhọc mà cố làm điều thiện khi chết cũng được về Tây phương, sinh trong một búp sen.

Biết được sự diễn tiến của cuộc sống như vậy. Biết được là có sống 
phải chết, lành được phước, ác mang hoạ; bởi tiềm thức là nơi ấp ủ, hướng theo giống đã gieo như trà ướp sen thơm mùi sen, trà ướp sói bay mùi sói.

Cái sống của hình phạt nơi Âm cảnh là lẽ thường, dễ hiểu, không có gì mơ hồ, dị đoan.

Muốn thắng được mọi sự lôi cuốn không có gì hơn trong kiếp sống hiện tại ta có phương pháp định tâm (tu thiền định) mà môn Thiền phổ thông cho mỗi giới, mỗi hoàn cảnh là môn Như Lai Thiền. 

Mỗi người hãy tự cố gắng sức làm cho mình, khuyên kẻ khác làm theo, đó là một lối cứu độ Thân Trung Ấm hoàn toàn vậy. 

Người có định tâm vững không cảnh nào lôi kéo được mà ta còn giúp được kẻ khác an ổn trong cảnh này nữa.   

Bài 26 : Những Điều Chấp-Nhất Thông Thường Của Người Tu Phật 

1/ Không biết ta có "số" tu theo đạo Phật hay không ?
2/ Ta cứ làm những điều nhân-nghĩa rồi sẽ hay.
3/ Làm cho trọn nhân-đạo, sẽ tu Thiên-đạo và Phật-đạo.
4/ Tu theo đạo Phật không phải là dễ, hoặc theo Tiểu thừa là quá khó, mong gì theo nổi Đại thừa.
5/ Đời này là thời Mạt pháp, làm sao tu cho đắc đạo được ?
6/ Cứ niệm Phật, tưởng Phật, an chay là tu rồi chứ còn gì nữa?
Tất cả những điều trên đây là sản phẩm của "thức-chấp". Chúng ta lần lượt tìm hiểu mỗi một :

1/ Không biết ta có "số" tu theo đạo Phật hay không ?

Tử vi, tướng pháp, bói dịch : đó là những cách thức mà ngoại đạo thường dùng. Họ chủ trương có "số" có "định mệnh". Họ căn cứ vào tướng số mà cho là tu được hay không.

Con người vốn sinh tử vô lượng số kiếp, có thể ở những kiếp sâu xa có duyên với Phật mà chưa đến này nẩy nở, mà nói đến số kiếp sâu xa thì Tiên, Thần cũng chẳng biết cho cùng được huống hồ là mấy ông thầy tướng số.

Theo nhà Phật, chỉ có căn cơ cũng gọi là duyên. Duyên là những điều do nhân nối tiếp. Ngẫm trên sự đời, không có việc gì không có nguyên do : muốn dư giả phải cần cù làm việc: sinh ra, mà chính ta phải tự tạo lấy, gieo cái nhân trước. Ta nghĩ đến đạo Phật, cái "nghĩ" đã là một nhân-duyên, tức là đã có căn cơ rồi, lựa là phải đắn đo chờ đợi.

2/ Ta cứ làm những điều nhân-nghĩa rồi sẽ hay.
Kẻ suy nghĩ như thế cũng là một người thiện. Nhưng dòng đời nhảy mãi để qua luôn, cạn lúc nào không biết, đứt lúc nào không hay.

Làm thiện, làm ác cho nhiều, đời vẫn là bể khổ. Một ngày kia nhắm mắt, xuôi tay, nhân-nghĩa nào cứu vãn cho được : vì lẽ vô thường không bỏ một ai, vẫn đeo đuổi đưa con người vào cõi chết mênh mong hãi hùng, cõi của kẻ mê muội, chưa biết đâu là Chân lý.

Tu là đem lại cho mình cái hạnh phúc, vì được thoát khổ mãi mãi. Giữa cuộc sống, chết, đau khổ, ta vẫn tìm được cái an ủi tự tại. Như vậy, kẻ cho rằng cứ làm điều nhân nghĩa sẽ hay, chẳng khác nào người bị bạo bệnh cứ lo giữ vệ sinh, nhịn đói,...trong khi vi trùng nguy hiểm đã xâm nhập vào tạng-phủ mà không hay biết, nếu không kịp thời tìm danh y, thần dược chữa trị để kết quả là ngã ra chết vì bệnh.

3/ Làm cho trọn nhân-đạo, sẽ tu Thiên-đạo và Phật-đạo.
Sinh giữa đời ô trược đau khổ nầy, kiếp người là hiện nghiệp của bao đời nghiệp-chướng trước. Lấy sức mình (nhân đạo) trong kiếp hiện tại không thể nào tẩy rửa mua chuộc các tội lỗi chồng chất trong vô số kiếp trước. Cho dù có được chăng nữa, lần từng bước để làm thì biết bao giờ mới đạt được hay không? Hay nữa chừng đứt gánh vì không có một đường lối vững vàng chắc chắn?

Hơn nữa, trong khi mưu cầu làm điều nhân nghĩa, cái vốn cố làm cho được đó chắc gì đã nhiều hơn những nghiệp chướng do vô minh tạo nên? Do đó, muôn đời nhân nghĩa cũng giải quyết không xong, thì bảo chỉ "tu theo nhân nghĩa" làm sao tròn vẹn cho được ?

4/ Tu theo Phật không dễ, tu Đại-thừa khó. 
Lựa gì phải tu theo Phật-đạo (Tiểu hay Đại thừa) mới cho là khó; ta làm Tiên, làm Thần đã để làm sao ? Ngay trong thế gian, muốn làm giàu cũng đã khó lắm rồi. Đường đi thường đã khó, huống chi vào rừng tìm của quý thì bảo chẳng khó làm sao được. Nhưng ở đời không có cái gì là không làm được, miễm sao có chí, có dũng, có cố gắng tìm hiểu, một việc có người đã làm được, tất cả cũng có thể làm được, người đã biết nơi biết chốn sẽ dẫn đắt ta, ta chỉ cần cố gắng làm theo là được.

Ý nghĩ trên kia nảy sinh trong tư tưởng của những kẻ lỡ gặp hạng lý thuyết suông không thể thực hành đúng đắn, tự nhận là người tu, lâu thuộc kinh điển, phô bày hình tướng, âm thanh, làm trò ảo thuật mà chẳng đem lại kết quả gì.

Xưa kia, Thái tử Tất-Đạt-Đa (con người như ta) đã làm được, Chư Tổ đã làm được, bao nhiêu người đã làm được, tất cả đã đạt được sự giải thoát luân hồi. Những kết quả ấy không phải là những chuyện bịa đặt mua vui, sản phẩm của óc tưởng tượng mà là những bằng cớ hiển nhiên để cho ta chiêm nghiệm thực hành mà không do dự.

Đại hai Tiểu thừa vẫn là Phật pháp chẳng khác những lớp học từ dễ đến khó, nên tu Tiểu thừa là một cái lầm lớn. Dù học thông tam tạng kinh điển, ẩn ở núi non, diệt dục hàng mấy mươi năm mà chưa đạt được chân lý giải thoát của Phật, một kẻ tu hành dù tốn công phu như vậy, vẫn chưa có thể biết được căn cơ của mình, chứ đừng vội bàn đến căn cơ của người khác.Đang tu hành không biết mình tiểu căn hay đại căn. Sự hiểu biết nầy đang tùy thuộc gốc hiểu biết, khả năng biết của người dẫn dắt, chẳng khác nào học vỡ lòng với ông thầy viết chữ xấu; gặp được ông thầy có tay cẩn thận, ta sẽ học được cái cách giữ gìn sách vỡ sạch sẽ, chữ viết đều đặn, ngay hàng thẳng lối.

Ta hãy xem một đoạn kinh Viên Giác : "Nầy các Thiện -Nam! Các Vị Bồ Tát hóa thân hình trong thế gian, không phải vì ái dục nhiễm ô như chúng sinh, mà gốc do lòng từ bi đại nguyện cứu thế, nên đã hiện ra thân tham dục để vào sinh tử hóa độ chúng sinh...Nầy Thiện-Nam! Tất cả chúng sinh gốc từ vô minh tham-dục nên sanh ra năm món tánh sai khác...Nầy Thiện-Nam! Năm chủng tánh là : Thinh-văn chủng-tánh, Duyên -Giác chủng-tánh, Bồ-Tát chủng-tánh, Bất-Định chủng tánh và Ngoại-Đạo chủng tánh.

Nầy Thiện-Nam! Có loại chúng sinh có thể chứng được Viên-Giác, song nếu chúng gặp Thiện-Tri-Thức là Thinh-Văn hóa độ thì chúng thành Đại-thừa. Nếu gặp Như-Lai dạy tu đạo Vô-Thượng Bồ đề thì chúng thành Phật thừa...Nầy Thiện-Nam! Nếu các chúng sinh đời sau, phát đại nguyện tu hành để nhập Viên-Giác thì phải nguyện : Con nguyện ngày nay được gặp Thiện-Tri-Thức dạy con tu hành để nhập Viên-Giác, chớ gặp tá-sư ngoại đạo và Nhị thừa..."

5/ Đời Mạt-pháp làm sao tu được ?
Đời Mạt pháp đa số tu khó hay khó tu thì vẫn đúng. Nhưng trong các kinh Phật, mỗi lần Phật thuyết xong các kinh có hàng sa Chư Thánh, Bồ Tát đều phát nguyện xuống cứu thế luôn luôn vào các nơi ô trược (không kể thời gian và không gian) để độ sinh.

Những kinh sách ghi lại lời chỉ dạy của Chư vị Thánh, Tổ chỉ nói đến khía cạnh nào đó, chớ theo đây làm toàn diện. Chúng sinh mạt, chứ Phật-phát thường còn làm sao được gọi là mạt ?

Đời Mạt là đời mà đạo đức suy vi, hốn độn. Song đã có loạn thì hẳn cũng có trị; vì tùy theo từng giai đoạn chứ không phải là tuyệt đối. Như xưa, ở Tàu loạn thì lại có Đức Khổng Tử ra để làm an thế cuộc.Ở Ấn Độ chia làm 4 giai cấp thì có Đức Thích Ca đến để san bằng cách biệt. Chẳng khác nào năm có bốn mùa, đông hết lại xuân sang.

Thế nên, mỗi khi gặp Thiện-Tri-Thức Giác Ngộ Phật Đạo đem giáo pháp thuyết truyền, tức đã hợp thời cơ, tuần tự theo thời gian mà loạn hóa trị, mạt sửa chỉnh.

Vậy đời Mạt pháp là đời mà đạo đức của đa số chúng sinh đã suy vi, bất tín Phật pháp. Còn một người giữ được tín tâm vào phật lý, thì còn cứu độ, chứ không khi nào tuyệt diệt được.

Ta hãy xem kinh "Duyên mệnh Đại Tạng Bồ Tát"

Vua Đế Thích, tên là Vô Cấu Sinh bạch Phật rằng : "Lạy Đức Thế Tôn! con muốn độ đời...như sau này khi Phật diệt độ rồi, muốn cứu giúp chúng sinh đời mạt pháp phải dụng cách gì?"
Phật bảo Vua Đế Thích rằng :"Có một Bồ Tát gọi là Duyên Mệnh Địa Tạng, mỗi ngày cứ sáng sớm nhập vào các phép thiền định đi giáo hoá sâu ngã, cứ khổ ban vui. Những kẻ Tam đồ nếu thấy hình tướng hoặc nghe danh hiệu thì được sinh nhân thiên hay về Tịnh độ, còn ở ba đường thiện mà nghe danh hiệu lại được quả báo hiện tại, sau về cõi Phật. Nghe tên là thế huống là chuyên lòng niệm tưởng ắt tâm nhãn khai toả, thành tựu khổng đại".

....Bấy giờ Vua Đế Thích lại bạch Phật rằng :"Lạy Đức Thế Tôn, cớ sao gọi là Duyên Mệnh Địa Tạng Bồ Tát, tưởng đó như thế nào ?"

Phật bảo Vua Đế Thích :"Thiện Nam Nữ! Bậc Chân thiện Bồ Tát thì tâm sánh tỏ và viên mãn, nên gọi là Như Ý Luân, tâm không quản ngại thì được gọi là Quán Tự Tại, tâm không sinh diệt gọi là Địa Tạng, tâm không biên tế nên gọi là Ma Ha Tát. Các ông nên tín thụ, tâm chớ phân biệt và cũng chớ quên mất"

So ấy, có thể bảo rằng đời Mạt pháp không tu được, không thành đạo được, không có kẻ độ là có lý ư ? 

6/ Cứ niệm Phật, tưởng Phật, an chay là tu rồi chứ còn gì nữa?
Đó là một phương tiện nối phá...về một thời nào đó không còn người biết pháp tu Phật, không còn phương pháp tu Phật, nên Phật bày ra cách thức nhớ Phật, tưởng Phật,...Chứ có lúc Người dạy ta đắc đạo hiện tại, mà ta không chịu làm theo, lại cứ lý luận suông, tưởng nhớ, niệm Phật vội cho là đủ. Hành vi ấy là cố chấp, không thể tiến bộ được, ắc không có kết quả gì về đạo lý của Phật.

Có người nói rằng : tu lâu thành đạo...Tu không phải dễ. Điều này đúng. Vì nếu không có đắc truyền, không biết phương pháp thì ta chẳng biết bao giờ mới đến. Nhưng có người làm được, dắt ta, tất ta phải được, phải đến chứ! Nếu không chịu hạ thủ công phu mà cứ ngồi đó than vãn : đã không biết "đến là gì", "tu là tu làm sao", sao ta lại nói tu lâu, tu mau và đến hay không đến?

Chẳng khác nào kẻ chưa bao giờ lắn xuống bể sâu vì không biết lặn lại đi cãi với người biết lặn. Người lặn được xuống tận đáy, bảo bể sâu 10 thước thì kẻ kia vội lý luận rằng : "chỗ bể ấy sâu hơn, không bao giờ lặn đến; chỗ ấy sâu lắm, chứ bảo 10 thước thì không tin được..." Kẻ không biết lặn kia, không chịu học hỏi theo người biết lặn, vì tự ái, tự phụ hay vì hèn nhát, nên phải vội chê bay hay cãi với người đã lặn được: đó là mê lầm vậy.
Cũng như đang bệnh nặng, không có thầy để chữa trị, hay khi gặp thuốc hay mà lại chối từ không chịu dùng.

Nói về xem kinh thì kinh Tiểu thừa nói khác, kinh Đại thừa nói khác, chớ lấy đó làm đích duy nhất cho trí tuệ đời mà gặt lắm điều nguy hại. 

CHẤP VỀ THỜI GIAN VÀ THÁNH PHẬT

1- Thời này làm gì có Thiện-Tri-Thức như các vị Bồ Tát, Phật ra đời để độ sinh, vì chúng sinh đang cơn ly loạn,...
2- Ở xứ nầy không có Phật. Ở xứ kia mới có Phật. Lúc nầy chưa phải là lúc Phật, Bồ Tát ra đời :
Ta thử nghiệm xét những suy tư trên :

1-Thánh, Phật là những vị tự tại vô ngại nên luôn luôn đều vào được sáu cõi để hành bi nguyện độ sinh. Cõi đời nầy hiện là hung ác loạn ly, chúng sinh đau khổ, khốn cùng mà Chư Vị Giác Ngộ không độ chúng sinh thì còn đợi đến lúc nào nữa? Vẫn biết rằng không duyên thì Phật sẽ không đến. Song đời nầy đa số tin Phật, tức là hữu duyên đấy chứ ? Là bậc tự tại, Thánh, Phật nào có ngại, có sợ chỗ nào mà không đến? Chư vị đến để độ sinh chứ phải đến để vui chơi đâu mà phải chờ đến lúc chúng sinh hiểu hóa, thế giới thanh bình an lạc mới đến? Phật ở cõi Phật không gì sung sướng, không gì vui bằng, sao lại phải đi tìm chỗ vui, lúc vui mới đến? Phật không cứu chúng sinh khi họ đang khổ, mà đợi đến lúc họ sung sướng rồi mới cứu hay sao? Vã lại việc độ sinh của Chư Vị Giác Ngộ là một việc không thể nghĩ bàn; lạm bàn vào đây chẳng hóa ra ta là Phật, là thầy của Phật hay sao?

2-"Phật ở xứ nầy, xứ kia, tướng kia, hình nọ" Phật là bậc tự tại muốn độ đâu Phật liền đến đó, lựa là phải làm giống y theo thế gian, phải xem địa hình, phải xem sao, đoán hạn hay sao?...Phật, Thánh thì không có tướng, cũng chẳng có hình, tùy hạnh-nguyện độ tất cả, đâu chắc là tướng gì mà ta biết cho được.
Những kẻ tu hành chút ít ví như kẻ xem qua sao, hạn sơ sơ, vội đem lối, dẫn đường cho mọi người, chẳng khác kẻ mù đã chẳng thấy voi (chỉ quan sát được một bộ phận) lại đi khen, chê voi đẹp, xấu, voi đi mau, chậm; thật chẳng khác kẻ điếc cho rằng tiếng đại bác nhỏ hơn tiếng súng trường !
Phật, Thánh đắc nhập vô lượng môn Tam muội chánh định) độ sinh bất khả tư nghi diệu dụng. Muốn gặp, biết, thấy được, chỉ có một phương pháp là : tu trì đạo hạnh, học hỏi phá chấp, chớ có bàn luận hồ đồ mà mắc tội đại vọng ngữ.

Bài 27 : Tin Phật

Trước khi tu, mỗi người hẳn phải tự bảo mình nên suy nghĩ cặn kẽ, tìm hiểu rõ ràng Phật là thế nào. Khi những thắc mắc của mình một phần nào được thỏa mãn, lúc đó mới quyết định sự tu hành và bắt tay vào việc, thệ nguyện quy y, cương quyết hành trì : thế gọi là ĐẶT LÒNG TIN
Ta đã biết Phật là vô tưởng, vô tác không thể nghĩ bàn, Pháp và Tăng vẫn là cao siêu khó mà suy xét thông thường song vẫn có những điều căn bản để tin tưởng được.

1- Có người xem chuyện hay lạ, lấy đó đặt lòng tin. Ta biết Phật pháp là môn cứu khổ cho đời. Phật pháp cao siêu có nghĩa là : giúp cho mọi người thoát khổ, một điều mà các đạo giáo khác khó làm được. Nếu có là cứu giúp cho tất cả các hạng người có nghĩa là Phật pháp không phân biệt trình độ "hiểu biết đời". Phật pháp phải là rất dung hòa, giản dị, phổ thông. Song dù phổ thông, dù giản dị, Phật Pháp không hề suy giảm cái tánh cách cao siêu của nó. Vì giải thoát con người, đó là điểm cao siêu nhưng vẫn giản dị, phổ thông nhất.

Đạo Phật là chân thật không cần những màu mè tô điểm bên ngoài, không cần những kiểu cách để tỏ ra là cao thượng, là đặc biệt.
Đạo phật không cần cả rừng lý thuyết cao siêu, mà cần chỗ thực tế : giải thoát con người.

2- Có người tin Phật, vì tin rằng lúc chết về Tây Phương. Đó là một điều rất quý, nghe được và với sự tin tưởng ấy trong lòng phát ai cũng có thể ra bằng hành động, cũng không mất công, mất của, trở ngại cho sinh hoạt của ta. Nhưng có chắc rằng khi chết sẽ về Tây Phương không ? Hay lúc ấy sẽ bơ vơ, sẽ phưởng phất hối tiếc một kiếp người sẽ phí phạm? Nếu chắc về Tây Phương, sao những kẻ tại thế gian, tự xưng là người dẫn dắt ta tu hành, đến khi nhắm mắt vẫn trong ta niệm cho vài câu tiếp dẫn, đặt cho vài lễ cầu siêu Tịnh Độ.
Nếu có Pháp môn phương tiện nào của Phật dạy ta giải thoát kiếp hiện tại thì đúng ra ta phải làm ngay, vừa cứ thực hiện lòng tin cố hữu là " tin Phật sẽ về Tây Phương" nghĩa là cùng một lúc thực hành hai lối, mà hai lối ấy không có gì trái nhau, ngăn trở nhau cả.
Chỉ có, kẻ vì đời không vì đạo lý, mới tự ngã, tự phụ, nhắm mắt chờ chết để về Tây Phương, mà không chịu làm những cái gì hiện tại ta có thể làm được.

3- Có người suy xét, tìm Phật pháp theo ý nghĩ, theo cái "sở biết phàm phu" của họ. Đối với hạng người này, Phật pháp biến ra một vụ xử kiện, trong ấy họ là một can nhân, vừa là trạng sư tự biện minh cho mình.
Không thể thế được, không thể bàn luận như thế được. Nếu cứ tin nơi cái " Lý thuyết đời người" thì sẽ hỏng theo với nó.

Ta hiểu biết bảy phần thì hãy tôn kẻ hiểu biết tám phần làm Thầy. Tuy nhiên, cũng nên suy nghĩ, phán đoán tìm xem : Nguời mà ta tôn làm : "Minh Sư" kia có hơn ta phương diện "Phàm tánh" không.Người ấy đã hết tham, sân, si, chưa hay cũng chỉ như ta, cũng buồn, vui, ghét, giận tranh giành quyền lợi,kết phe lập nhóm, tự tôn, tự đại như thường nhân? Nếu họ chưa gột sạch những dây vô minh ràng buộc ấy thì dù cho họ là những triết gia lỗi lạc, "thuyết pháp" thao thao bất tuyệt, họ cũng chưa phảo là người dạy cho ta tu Phật, vì họ vẫn chưa giải thoát sinh tử luân hồi.

4- Có người nghĩ : Nên theo những hội hè đông đúc mới tìm được đúng chỗ Phật pháp chánh đáng, vì nếu không chánh thì tại sao đa số những người hiểu biết ùn ùn chạy theo như vậy.
Lý luận như vậy lại càng không phải ! Các tôn giáo Thiên Chúa, Tin Lành, Hồi Giáo, Ấn Giáo, tín đồ đông đảo, cũng là Phật Pháp chánh đáng sao ? Nếu nói có đông mới dễ làm, dễ tu, lại cũng sai nốt. Vì sao ? Đông không phải là điều cốt yếu, mà cốt yếu là chân lý ta nhận xét được, tự cá nhân phải khắc phục lấy thân tâm, chế ngự nghịch cảnh của mình.

5- Có người lầm câu nói của Lục Tổ : "Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác..."
Kẻ đi tìm cái kiêu kỳ, mới lạ, huyền bí thường hay mắc vào ngoại đạo. Mà kể theo phong trào thế gian lại hay sa địa ngục vì quan niệm sai lầm về Phật pháp tại thế gian. Phật pháp hiện có tại thế gian nghĩa là hiện tượng thế gian đồng với TÁNH PHẬT. Nhưng đồng là đồng với Chân lý, với tự tánh giải thoát, chứ không đồng với khách trần phiền não của thế gian.

Có người học được một mớ triết lý của Phật nhưng chưa giải thoát được, và vì quỷ vô thường chưa đến với họ, họ tạm an ổn với cái "biết đời" của mình. Họ không tự lo đường giải thoát cho chính họ, lại đứng ra hô hào "độ sinh cứu thế". Độ sinh mà chưa tự độ mình, thì thật là trái lẽ. Thử nghĩ, nương theo đâu để gọi là "Độ"? Khi chưa là bậc giải thoát thì muôn sự dù tốt đẹp đến đâu cũng vẫn còn lòng vòng trong các pháp, dính vào pháp, khả năng dù dồi dào vẫn là cái "khả năng đời".

Lấy kinh sách Phật mà dịch nghĩa, giảng giải cũng chưa phải là hoằng pháp và chớ lầm rằng đó là Phật sự. Vì lầm nên họ đã lấy cái "khả năng đời" để làm đạo, mang cái tâm tham, sân của mình ra để hành vi, cố tạo nên một chủ nghĩa phô truơng bằng sức mạnh, để nhiều người thấy hầu lôi cuốn họ chạy theo mình. Nhưng nếu kẻ chạy theo không thâu lượm được gì giải thoát, thì kẻ đứng đầu phải chịu những trách nhiệm hướng dẫn sai lạc, dầu cho họ không vì danh lợi tối thiểu mà hành sự, nhưng với cái lầm lạc vi tế, kẻ cầm đầu mắc tội Đại Vọng Ngữ.

6- Theo Kinh Viên Giác, kẻ tin Phật hãy đi tìm một Bậc Thiện Trí Thức "đừng căn cứ vào hình thức mà lầm Hạnh Nguyện". Bậc Thiện Trí Thức phải dẫn dắt ta giải thoát sinh tử luân hồi ngay kiếp hiện tại. Lẽ tất nhiên ta phải tin rằng Bậc ấy đã giải thoát. Nếu không tin mà vẫn theo tu tập, tức là ta đã nhận rằng ta đã đui mà còn theo nhờ một anh mù dắt đường, cùng nhau đều lầm lẫn.

7- Có người nghĩ rằng : ta tự quyết "thắp đuốc lên mà đi" tự tu hành lấy, là điểm chính của môn giải thoát ,theo chỗ này hay theo chỗ nọ không phải là điều quan hệ mà chỉ cốt thuận tiện cho vấn đề tín ngưỡng, làm lành, nghi lễ, hình thức bên ngoài, không phải là không quan hệ, vì nhất định nó vẫn gây ra sự dính mắc, kéo đến sự hơn thua, chủ trương phe phái, phiền phức cho tư tưởng của ta.

Tự tu-Ta biết là cái gì chưa? Ta ở đâu? Thể chất giả hợp, tư tưởng giả hợp, ta có tự chủ để tự sai khiến được không? Ta không thực có cái "Ta", ta nô lệ cho vũ trụ bởi các dòng pháp, bởi ảnh hưởng của ngoại cảnh.

Ta tin Chân lý Phật, hiển hiện trong tâm hồn của những vị Thánh Tăng, tỏ rạng đức từ bi thoát tục, không se sua mà giản dị, không hình thức kiêu kỳ mà thoát vòng danh lụy, tài lợi, đại vị và mưu mô của thế nhân, không ru ngủ người về cõi chết rồi sẽ ảnh hưởng mà dạy người cố gắng tu để thoát luân hồi hiện tại.


***************************************************

Xưa kia Đức Thích Ca đã nói : "Ta nói điều gì, các ngươi chớ tin rằng phải hay quấy. Ai nói điều gì, các người cũng chớ vội phê bình. Chớ nghe nói nơi nầy đông người, vội theo, chớ tin ở tài giỏi, ở lợi ích thế gian. Các người hãy suy xét, tìm hiểu sự thật, các ngươi hãy tự thắp đuốc lên mà đi".  

Xét đoán qua hình tướng ta có thể lầm. Như Tổ Huệ Năng có lúc theo thợ săn, Bố Đại Hòa Thượng đi lang thang đây đó, các Bồ Tát hóa thân làm cư sĩ, thậm chí làm kẻ bán thịt, làm dâm nữ để phương tiện độ sinh. Lấy hình tướng mà luận bàn, ta mắc biết bao lỗi lầm, có khi Phật ra đời độ ta, ta không rõ rồi sanh tâm phỉ báng, kết quả vào A Tỳ Địa Ngục khốn khổ muôn đời. 

Theo lời thọ ký của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật trước khi nhập Niết Bàn, sau này vào thời Mạt Pháp, Bồ Tát Di Lạc vì Đại Bi nguyện mà Hạ Sanh xuống thế gian, tận độ chúng sanh. Ngài sẽ thành Chánh Quả, là một vị Phật nối tiếp Đức Phật Thích Ca, chỉnh trang Phật Đạo, giữ gìn Chánh Pháp của Như Lai Phật trường tồn được 5000 năm.

http://www.longhoahoithuong.org/
http://phatdaothoimatphap.blogspot.com/ 




Không có nhận xét nào: